So sánh sản phẩm

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

          Gia đình giữ vai trò quan trọng trong động lực phát triển xã hội. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn, hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải chú ý hạt nhân cho tốt”. Và để có một gia đình hạnh phúc, trước hết phải xây dựng hôn nhân hạnh phúc. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “1. Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. 2. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em”. Do vậy, pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam về quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng, đặc biệt, các quy định về quan hệ tài sản nói chung, chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nói riêng ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng điều kiện phát triển kinh tế - xã hội.

          Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 (viết tắt là Luật HN&GĐ 2014) được ban hành, trong đó, các quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là sự kế thừa, phát huy và hoàn thiện chế định này trong hệ thống pháp luật HN&GĐ Việt Nam. Theo đó, chế định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là căn cứ để vợ chồng chủ động tham gia vào các giao dịch dân sự, kinh tế, hoạt động thương mại,…hay thực hiện các nghĩa vụ riêng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và những người có liên quan.

          Trong bài viết này, Văn phòng luật sư Như Khuê sẽ phân tích khái quát các quy định về: Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

1. Quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

          Tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này, nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết".

          Vợ chồng có thể thỏa thuận phân chia tài sản chung và trong trường hợp không thỏa thuận được, vợ hoặc chồng yêu cầu Tòa án chia. Đối với trường hợp cả hai vợ chồng thỏa thuận được việc chia tài sản chung thì những nội dung của thỏa thuận đó sẽ được lập thành văn bản, văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 38 Luật HN&GĐ năm 2014). Do vậy, người có quyền yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ có thể là vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng.  

2. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

          Luật HN&GĐ năm 2014 đã khắc phục hạn chế của pháp luật hôn nhân gia đình trước thời điểm Luật này có hiệu lực khi đã dự liệu các nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân như khi ly hôn. Theo đó, các nguyên tắc cơ bản này gồm:

          Thứ nhất, nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng: Trong quan hệ hôn nhân, Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định tại Điều 17 như sau: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật này và các luật khác có liên quan”.

          Thứ hai, nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng: Nguyên tắc này thể hiện ở việc chia tài sản hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu trong thực tế đời sống của vợ chồng, hai bên có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ khối tài sản chung. Người thứ ba hay các chủ thể khác có liên quan đến tài sản của vợ chồng không thể can thiệp và thỏa thuận phân chia này.

          Thứ ba, nguyên tắc thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không được trái pháp luật và đạo đức xã hội: Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc chung của pháp luật dân sự, theo đó, tại khoản 2 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 thì “…mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”.

          Thứ tư, vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của con cái: Khoản 4 Điều 68 Luật HN&GĐ năm 2014 đã có những quy định cụ thể về quyền và nghĩa cụ giữa cha mẹ với con cái, cụ thể: “Mọi thỏa thuận của cha mẹ, con liên quan đến quan hệ nhân thân, tài sản không được làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”.

                                                                                                                               Ảnh minh họa: Internet

3. Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

          Khoản 1 Điều 38 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”. Quy định này đã ưu tiên sự tự định đoạt của vợ chồng đối với khối tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, trao quyền rất lớn cho vợ chồng tự định đoạt tài sản chung và phù hợp với xu thế phát triển của xã hội hiện đại. Tuy nhiên, pháp luật hôn nhân gia đình hiện hành cũng dự liệu trường hợp có mâu thuẫn trong việc thỏa thuận dẫn đến không thỏa thuận được thì vợ chồng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

          Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân tại Điều 39 Luật này. Theo đó, thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản; nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản.

          Tuy nhiên, để xác định việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là có hiệu lực vào thời điểm nào thì bản thân thỏa thuận đó phải là thỏa thuận không thuộc trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị coi là vô hiệu và phải tuân theo hình thức do pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành đã quy định.

5. Hệ quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

5.1. Về quan hệ nhân thân

          Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt quan hệ nhân thân của vợ chồng trước pháp luật. Do vậy, sau khi chia tài sản chung thì quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ chồng vẫn còn tồn tại.

5.2. Về quan hệ tài sản

          Điều 40 Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định hậu quả pháp lý về tài sản sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Bên cạnh đó, tại Điều 14 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP cũng quy định cụ thể hơn về vấn đề này.  Theo quy định tại Điều 40 Luật HN&GĐ năm 2014 thì:

          “1. Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng.

          2. Thỏa thuận của vợ chồng quy định tại khoản 1 Điều này không làm thay đổi quyền, nghĩa vụ về tài sản được xác lập trước đó giữa vợ, chồng với người thứ ba.”

          Ngoài ra, Điều 14 Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 cũng quy định chi tiết như sau:

          “1. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định.

          2. Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu vợ chồng không có thỏa thuận khác thì phần tài sản được chia; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng khác của vợ, chồng là tài sản riêng của vợ, chồng.

          3. Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu tài sản có được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ, chồng mà không xác định được đó là thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh của vợ, chồng hay là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng đó thì thuộc sở hữu chung của vợ chồng.”

          Thấy rằng, hậu quả pháp lý về mặt tài sản của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định, vợ chồng vẫn bình đẳng với nhau trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Điều này được thể hiện rõ nhất trong trường hợp vợ chồng chỉ chia một phần tài sản chung bởi phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng.

6. Chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

          Theo quy định tại Điều 41 Luật HN&GĐ năm 2014 thì vấn đề chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bao gồm những nội dung sau:

          Thứ nhất, sự thỏa thuận của vợ chồng: Nếu như đối với việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ cần một trong hai bên vợ chồng có yêu cầu thì việc trở lại với chế độ tài sản chung chỉ có thể được thực hiện khi có sự đồng ý của cả vợ và chồng; nếu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là văn bản được công chứng thì thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng cũng phải được công chứng tại cơ quan công chứng có thẩm quyền. Trong trường hợp việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án thì thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung phải được Tòa án công nhận.

          Thứ hai, về hình thức của thỏa thuận: Theo quy định tại khoản 1 Điều 41 Luật HN&GĐ năm 2014 thì hình thức của thỏa thuận được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 38 của Luật này, tức là thỏa thuận phải được lập thành văn bản, văn bản này được công chứng theo yêu cầu của bên vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.

          Thứ ba, về nội dung thỏa thuận: Đây được xem như là giao dịch có tác dụng tuyên bố chấm dứt hiệu lực của các quy định áp dụng riêng cho trường hợp vợ và chồng đã tiến hành phân chia tài sản chung. Kể từ ngày thỏa thuận của vợ chồng về việc chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì tài sản đã được chia vẫn tiếp tục là tài sản riêng của vợ chồng nhưng hoa lợi, lợi tức gắn liền với tài sản được chia không còn là tài sản riêng mà đã trở thành tài sản chung của vợ chồng do áp dụng luật chung trong quan hệ tài sản vợ chồng, tức là Điều 33 và Điều 43 Luật HN&GĐ năm 2014 được áp dụng kể từ thời điểm chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trở về sau trong đời sống chung. Tuy nhiên, phần tài sản mà vợ chồng đã được chia vẫn thuộc sở hữu riêng của vợ chồng trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác (khoản 2 Điều 41 Luật HN&GĐ năm 2014). Quyền, nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời điểm chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Trong trường hợp việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án thì thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung phải được Tòa án công nhận.

----------------------------------------------------------

Bài viết mang tính chất tham khảo do Văn phòng luật sư Như Khuê thực hiện, mọi chi thông tin cần tư vấn, hỗ trợ về hôn nhân gia đình, liên hệ:

- Trụ sở chính: số 16 Phan Văn Trị, phường Quốc Tử Giám, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội;

- Chi nhánh Tp. HCM: số 19 đường số 4, khu DC Cityland, phường 10, quận Gò Vấp, Tp. HCM

SĐT: 0971862176

Gmail: vplsnhukhue@gmail.com

    

 

 

 

Tags:,

Chia Sẻ :

Tin cùng danh mục