So sánh sản phẩm

Phân biệt biện pháp bảo lãnh (một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ) theo pháp luật dân sự với biện pháp bảo lĩnh (một trong những biện pháp ngăn chặn) theo pháp luật tố tụng hình sự

Phân biệt biện pháp bảo lãnh (một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ) theo pháp luật dân sự với biện pháp bảo lĩnh (một trong những biện pháp ngăn chặn) theo pháp luật tố tụng hình sự

          Trên thực tế, khi sử dụng thuật ngữ pháp lý, một số người còn nhầm lẫn giữa “bảo lãnh” và “bảo lĩnh” mặc dù hai thuật ngữ này được sử dụng trong hai lĩnh vực khác nhau. Theo đó, bảo lãnh được xác định theo pháp luật dân sự là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được quy định tại khoản 7 Điều 292 Bộ luật dân sự năm 2015; “bảo lĩnh” được xác định theo pháp luật tố tụng hình sự là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định tại khoản 1 Điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

          1. Bảo lãnh theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành

          1.1. Bảo lãnh là gì? Phạm vi bảo lãnh

          - Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.

          Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

          - Phạm vi bảo lãnh theo quy định tại Điều 336 Bộ luật dân sự năm 2015:

          + Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh;      

          + Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác;

          + Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh;

          + Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.

                                                                                                                                                                  Nguồn ảnh: Internet

          1.2. Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh

          - Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ;

          - Bên nhận bảo lãnh không được yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi nghĩa vụ chưa đến hạn;

          - Bên bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp bên nhận bảo lãnh có thể bù trừ nghĩa vụ với bên được bảo lãnh.

          1.3. Miễn việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và chấm dứt bảo lãnh

          *Các trường hợp miễn việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh:

          - Trường hợp bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên được bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác; 

          - Trường hợp chỉ một trong số nhiều người cùng bảo lãnh liên đới được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình thì những người khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của họ;

          - Trường hợp một trong số những người nhận bảo lãnh liên đới miễn cho bên bảo lãnh không phải thực hiện phần nghĩa vụ đối với mình thì bên bảo lãnh vẫn phải thực hiện phần nghĩa vụ còn lại đối với những người nhận bảo lãnh liên đới còn lại.

          *Các trường hợp chấm dứt bảo lãnh:

          - Nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt;

          - Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác;

          - Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh;

          - Theo thỏa thuận của các bên.

          2. Bảo lĩnh theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành

          Theo quy định tại khoản 1 Điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì bảo lĩnh là một trong các biện pháp ngăn chặn để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi quyền của mình có thể áp dụng.

                                                                                                                                                            Nguồn ảnh: Internet

          Tại Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2021 cũng quy định rõ về biện pháp định nghĩa; chủ thể có thể nhận bảo lĩnh; các nghĩa vụ mà bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải cam đoan; những người có thẩm quyền ra quyết định bảo lĩnh; thời hạn bảo lĩnh và trách nhiệm của chủ thể nhận bảo lĩnh, cụ thể:

          - Bảo lĩnh là biện phép ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh;

          - Cơ quan, tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức; Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập. Trong giấy cam đoan, cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh phải cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc nhận bảo lĩnh;

          - Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ: (i) có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; (ii) không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; (iii) không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định như trên thì bị tạm giam;

          - Những người có thẩm quyền ra quyết định bảo lĩnh:       

          + Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Quyết định  bảo lĩnh của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;

          + Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;

          + Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử;

          + Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.

          - Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ ngày khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.

          - Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật.

----------------------------------------------------------------

          Từ những phân tích trên đây, thấy rằng, việc sử dụng thuật ngữ pháp lý chính xác là điều quan trọng nhằm phân biệt các quan hệ xã hội mà quy định có liên quan đến bảo lãnh, bảo lĩnh điều chỉnh. Bài viết của Văn phòng luật sư Như Khuê mang tính chất tham khảo, mọi thắc mắc vui lòng liên hệ:

          - Trụ sở chính tại Hà Nội: Số 16 Phan Văn Trị, phường Quốc Tử Giám, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội;

          - Chi nhánh tại Tp. Hồ Chí Minh: Số 19 đường số 4, khu DC Cityland, phường 10, quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh.

          Hotline: 0971862176

          Gmail: vplsnhukhue@gmail.com

 

         

Tags:,

Chia Sẻ :

Tin cùng danh mục

Tin liên quan